Hôm qua tôi xem lịch, hôm nay ngày 20 tháng 3, ngày Cúng Thất (49 ngày) cho Ðại-tá Nguyễn-mạnh-Tường. Trong lịch ghi hôm nay là ngày "Spring Begins". Mùa Xuân đã đến rồi , thế sao vùng tôi ở lại mưa tuôn tầm tã, ngoài trời lại rất lạnh, hàn thử biểu trong nhà chỉ 65 độ. Như vậy, ngoài trời chỉ vào khoảng 50-55 độ mà thôi. Bà xã tôi từ bếp ra, bưng ly cà-phê đưa tôi và nói: "Hôm nay là ngày Cúng Thất cho Ðại tá Tường. Chương trình cho biết 10 giờ sáng bắt đầu, khoảng 9 giờ mình đi là vừa." Hôm nay Chúa Nhật, trời mưa, gió to và lạnh nữa nên xa lộ cũng vắng xe. Tuy nhiên, bà xã tôi cũng không dám lái nhanh, vì sợ đường trơn và gió tạt rất mạnh. Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây: Đã 3 năm nay, vì tôi bị bệnh "Vertigo" nên Bác Sỹ khuyên không nên lái xe, nhất là lái ngoài "freeway". Do đó, mọi sự di chuyển đi đây, đi đó đều do bà xã tôi lái. Ðược cái bả luôn vui vẻ, và không quên nhắc cho tôi nhớ lịch trình của tôi sắp phải đi đâu... Và có đôi khi tôi phải họp hành 2, 3 tiếng, bả ngồi chờ ngoài xe cũng không than phiền gì cả! Xin có lời cám ơn Bà Nội, Bà Ngoại mấy cháu.
Trên đường đi, tôi nhớ những kỷ niệm của tôi với Ðại tá Tường. Cuối năm 1964, tôi từ BÐQ về trình diện Sở Liên Lạc (SLL). Lúc này, Ông Tường làm Trưởng Phòng 3 của Sở. Tôi còn nhớ, sau khi trình diện Ðại tá Hồ-Tiêu xong, Ông Tiêu kêu Trung uý Nham, Chánh Văn Phòng đưa tôi đi đến từng Phòng, từng Ban của SLL để giới thiệu cho biết. Và đồng thời, ông cũng đưa tờ giấy ghi là tôi sẽ làm việc ở Phòng 3. Tôi được đưa đi giới thiệu hết các Phòng, và cuối cùng là Phòng 3. Việc đầu tiên tôi nhận xét là: Ông Trưởng Phòng mình so với các vị Trưởng Phòng khác hơi nhỏ con, nhưng bù lại rất dễ cảm tình vì ông luôn luôn cười và ăn nói thật nhỏ nhẹ. Tôi cũng được biết là năm 1960, ông có tham gia với Ðại tá Nguyễn-chánh-Thi đảo chánh Tổng thống Ngô-đình-Diệm nên bị đi tù Côn Đảo khi cuộc đảo chánh bất thành, và sau đó được trả tự do sau Cách Mạng 1963. Ngoài Ông Tường ra, SLL còn có 2 vị cũng từ Côn đảo về là: Ðại-úy Nguyễn-văn-Thanh ( Ðại Đội Súng Cối SÐ Dù), và Trung úy Lê-văn-Ðàng (không liên quan với đảo chánh năm 1960).
Thời gian này SLL mới thành lập, nhân viên từ bên Tổng Tham Mưu mới chuyển qua tiếp nhận doanh trại của Bộ Tư Lệnh LLÐB khoảng chừng vài tháng trước. Do đó, còn rất nhiều phòng ốc bỏ trống với đầy đủ giường tủ nên các sĩ quan độc thân của Phòng 3/SLL đều có phòng riêng ở trong trại. Trong đó gồm có Ðại uý Tường, Trung úy Trần thụy Ly, Nguyễn văn Ôn, Phan nhựt Văn, Trần trung Ginh và tôi. Buổi chiều khi hết giờ làm việc, mọi người đều ra tắm ở bể nước phía ngoài Phòng 3. Sau đó, ra ngoài ăn và đi chơi đến khuya mới về. Ông Tường có chiếc Vespa thường đi chung với Thiếu úy Ôn. Ông Ly thì có bồ làm ở Văn Cảnh nên thường thì sáng hôm sau mới vào trại. Tôi và Phan nhựt Văn đi chơi chung, nhưng thỉnh thoảng nó ghé vào nhà con Kim Huê bồ nó, làm ở Tour D’Ivoire. Chỉ có Trần trung Ginh là không đi chơi đâu cả, ăn uống xong là tập kéo đờn đại hồ cầm cho đến lúc chúng tôi đi chơi về. Hôm nào Ông Tường và Ôn không về trại thì biết ông và thằng Ôn ngủ ở phòng vãng lai Câu Lạc Bộ SQ An Ðông, vì ông có 1 phòng ở đó.
Cũng trong thời gian này, MAC-SOG và SLL mới bắt đầu bàn luận các kế hoạch và hình thành những công tác cho tương lai. Do đó, chúng tôi chẳng có việc gì làm cả. Ngoài Ông Tường, thằng Ôn cùng Trần trung Ginh, suốt ngày lo làm bản đồ cho Ð/T Hồ-Tiêu mang qua Tổng Tham Mưu trình Ðại tướng. Công việc của tôi trong mỗi phiên trực là nhựt tu lại tình hình Ðịch và Bạn trên bản đồ ở Trung Tâm Hành Quân (TTHQ). TTHQ này do BTL/LLÐB để lại, bản đồ rất lớn khoảng 12 x 8 thước.
Tình hình Địch hay Bạn đều xảy ra trên đất Lào. Tin tức này do những sĩ quan SLL qua Lào dưới dạng "Tùy Viên Quân Sự", rồi về nằm vùng tại các phân khu như: Tchépone, Salavan, Savanakhet, Atopeu và Paksé gửi về. Tin tức đều chú trọng vào sự xuất hiện của các đơn vị Cộng Sản theo đường mòn Hồ chí Minh xâm nhập vào miền Nam, theo dõi các biến động và di chuyển của địch trên đường số 9 và đường 922 vào vùng Khe sanh và vùng Tam biên; chú trọng vào 3 căn cứ địa 604, 611, và 612. Tôi còn nhớ Ðoàn 559 của Bắc Việt thường có mặt ở vùng này. Một lần lên ca trực, tôi thấy Ðoàn này theo tọa độ di chuyển 1 khoảng ngắn không đáng kể, nên tôi không nhật tu lại tình hình. Buổi trưa Ông Tường vào TTHQ xem lại tình hình địch, thấy tọa độ trên bản đồ và bản tin ông cầm trên tay không giống nhau. Ông hỏi tôi sao chưa nhật tu? Tôi nói: "Thằng 559 này cứ đi qua đi lại, cùng gần 1 chỗ nên tôi không sửa lại..." Tôi còn cố nói thêm: "Mình đâu có dùng phi cơ hay pháo binh gì đâu, nên xê xích chút đỉnh cũng đâu có sao!" Ông hừ một tiếng rồi bảo: "Nói như thế mà cũng nói được." Nhớ đến chuyện này tôi quê với ông hết sức!
SLL có khoảng hơn 15 người, vừa SQ và HSQ theo học nhảy dù bên TTHL/SÐ/Dù. Lần nhảy saut thứ 4, trong lúc chờ lên phi cơ tại phi trường TSN, một nhóm HSQ thuộc đơn vị bạn, cũng học nhờ ở SÐ Dù, gây lộn với vài SQ cùng đơn vị mình. Tôi thấy nhóm HSQ này gọi những SQ của họ bằng "mày, tao". Tôi nổi nóng nhảy vào can thiệp, thế rồi xảy ra ấu đả... Buổi nhảy dù vẫn tiến hành tốt đẹp, nhưng buổi chiều về đến Sở thì tôi được biết là bên Sư Đoàn Dù đuổi tôi, không cho đi nhảy tiếp. Tôi trình bày sự việc với Ông Tường và nói là: "Ðại-úy hỏi các anh em của Sở thì biết, tôi không phải là người gây sự trước." Sau đó, ông đưa tôi lên văn phòng CHT. Ðại tá Hồ-Tiêu nghe tôi trình bày cũng không la rầy gì. Lúc Ông Tường đưa tôi lên trình diện, ông có làm phiếu trình và kèm theo một giấy phạt 4 ngày, nhưng ông để tờ giấy phạt bên dưới, không đưa ra. Do đó tôi thoát nạn! Trên đường từ văn phòng CHT trở về Phòng 3, ông nói: "Các cậu lúc nào cũng du-côn." Ðó là câu duy nhất ông rầy tôi. Có điều buổi sáng hôm sau, thấy mọi người lên xe qua phi trường nhảy saut thứ 5 tôi quê quá, không dám nhìn mặt ông. Lúc ông ở văn phòng thì tôi chui vào TTHQ, lúc ông vào TTHQ thì tôi biến ra ngoài. Buổi chiều tôi chạy qua bên SÐ Dù, vào gặp Ông N.Q.T, Tham Mưu Trưởng SÐ/Dù, xin ông ấy cho đi học lại. Vài hôm sau, tôi được tiếp tục nhảy tiếp saut thứ 5 của khóa sau. Tôi hơn mọi người là học khóa 58A/ND, nhưng được cấp bằng khóa 58B/ND!
Ngoài trời vẫn còn mưa khá nặng hạt, gió cũng khá mạnh hơn lúc sáng. Con đường dẫn đến Chùa từ hướng Freeway xuống bị đóng để sửa đường, xe phải chạy vòng cũng khá xa. Tìm chỗ đậu xe xong là chạy nhanh vào chùa vì cơn mưa thật lớn. Buổi cúng cũng mới vừa bắt đầu. Niên trưởng Mục nói sơ qua về tiểu sử của Ðại tá Tường, và nói lý do mà anh em Khóa 5 Vì Dân muốn đem ông Tường về chôn ở Nam-Cali. Sau đó, Thượng tọa Thích viên Lý nói ông rất cảm phục bổn phận và lòng yêu nước của Ðại tá Tường mà ông đã đọc được qua báo chí và trên Net. Buổi lễ có mặt khoảng chừng 15 người. Bên ngoài thì mưa gió bão bùng. Trong chùa chỉ vỏn vẹn không quá 15 người nên không khí thật thê lương, ảm đạm. Tôi nhìn bức ảnh ông mặc đồ bông, đội nón đỏ, trên bàn thờ nhìn xuống như mỉm cười. Không biết linh hồn ông có hiện diện trong buổi lễ này không? Ông có buồn trong buổi lễ cúng hôm nay, cũng giống như hai ngày tang lễ của ông 49 ngày trước? Không có hình bóng một người thân, không có một chiếc khăn tang nào hiện diện cả! Hôm ở nhà quàn, còn có bức ảnh chụp cô con gái nuôi của ông ở bên Ðức cùng hai người con chít khăn tang gửi sang, cũng bù đắp thêm được phần nào hình ảnh của một đám tang cần phải có. Hôm trước ở nhà quàn, người quỳ đội sớ là con rể của Ðại tá Vị, cựu Tỉnh trưởng Bình Định. Hôm nay thì có thêm một cô, tôi nghĩ chắc cũng là con gái của một vị nào đó trong số bạn bè của ông. Hôm nay chỉ có mỗi Thượng tọa Thích viên Lý tụng kinh cho buổi lễ. Còn hôm ở nhà quàn, ngoài TT Thích viên Lý ra còn có hai vị Hòa thượng khác, cùng một ông Mục sư lo việc tụng niệm trong 2 ngày tang sự này.
Hai vị Hòa-thượng tụng kinh xong lại khóc than, kêu gọi tên Ông Tường thật thảm thiết làm mọi người đều mủi lòng. Tôi thấy nhiều người lớn tuổi kín đáo lấy tay chậm vội mắt. Hỏi ra mới biết hai vị Hòa thượng này là cựu Ðại tá Trần văn Tự, bây giờ với pháp danh Không Chiếu, và vị Hòa thượng kia là cựu Ðại tá Dương hiếu Nghĩa với pháp danh Không Như. Bây giờ tôi mới thấy câu "vô thường" là thật đúng ở hoàn cảnh ngày hôm nay. Hôm trước ở nhà quàn, ông nằm trong quan tài như đang ngủ. Bệnh tật tuy có hành hạ ông, nhưng sắc diện của ông cũng không tiều tụy cho lắm. Hôm nay, nhìn hình ông trên bàn thờ với nụ cười mím chi, trông như thoát tục. Có lẽ ý nghĩ của tôi cũng đúng, chắc ông đã ngộ được Thiền rồi. Bấy lâu nay ông nghiên cứu Phật Pháp, nghiên cứu Thiền, phái Trúc Lâm Yên Tử. Tôi nhớ đâu khoảng năm 2000, từ San Diego lên quận Cam, ông gọi điện thoại cho tôi. Tôi đón ông và rủ N/T Lê quang Tiềm cùng N/T Võ tân Tiếng đi ăn. Trong suốt bữa ăn, ông giảng về Thiền, về con đường giải thoát. Chắc tôi cũng có duyên với ông nên trong dịp này ông tặng tôi quyển Tổng Luận về Thiền. Một điều làm tôi ngạc nhiên là quyển sách này do ông viết tay, chữ nhỏ như con kiến. Không biết ông đọc qua bao nhiêu quyển sách Thiền để rồi cô đọng lại thành quyển sách viết tay gần 40 trang đầy giá trị này (trong ngày tang lễ ở nhà quàn, N/T Mục có in lại khoảng 50 quyển để ở cửa bước vào, ai có duyên thì đã nhận được 1 quyển). Ông nói ông có cơ duyên học được phương pháp "bấm huyệt". Có lần ông rủ tôi cùng với ông đi 1 vòng Nam, Bắc-Cali để trị bệnh cho bạn bè. Dạo đó tôi chưa về hưu nên không cùng ông đi đưọc. Mỗi lần ông lên quận Cam, tôi đón đưa ông ở nhà một người bạn ở đường New Hope, đối diện chùa Bảo Quang. Tôi cố đọc quyển sách Thiền ông tặng nhưng không hiểu nhiều lắm, chỉ thuộc lòng mấy câu:
"Tánh tức là Tâm - Tâm tức là Phật -
Phật tức là Ðạo - Ðạo tức là Thiền"
oOo
"Ở đời vui đạo cũng tùy duyên
Ðói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báo thôi tìm kiếm
Ðối cảnh không Tâm chớ hỏi Thiền"
Bây giờ thì Thượng tọa Thích viên Lý tụng đến phần kinh Bát Nhã Ba La Mật: "Sắc tức thị không, không tức thị sắc". Cái gì có đó, rồi cũng mất đó. Ông Tường ơi! Ông mất đi nhưng để lại trong lòng bạn bè vô vàn thương tiếc... Tôi đã có mặt trong hai ngày ở nhà quàn, phụ giúp tiếp đón quan khách đến phúng điếu nên tôi biết có những người chưa từng quen biết ông, như vợ chồng ông bà N.P ở Simi Valley. Bà vợ nói: "Hôm trước tụi em lên San Jose thăm bà con, nghe nói có một vị Ðại tá đang hôn mê chờ chết trong nhà thương, nhưng không có thân nhân nào thăm viếng cả. Vợ chồng em có vào thăm, chỉ thấy bạn bè ông ngồi đầy bên ngoài phòng đợi, chờ đến lượt mình được vào thăm mà thôi. Hôm nay, tụi em thấy báo đăng ông được bạn bè mang về chôn ở dưới này nên vợ chồng em xuống viếng ông lần cuối. Tụi em biết ơn ông, một đời chỉ biết lo cho đất nước..." Trước hôm ông mất khoảng 10 ngày, tôi nhận được được một cú điện thoại của một cô gái xưng tên là T.A. Cô cho biết, qua 1 người bà con, cô biết được hoàn cảnh của ông Tường, và người bà con này cũng cho cháu biết Chú trước có ở cùng đơn vị với Ông Tường nên cháu gọi đại Chú, hỏi thăm vợ con Ông Tường đã biết tin tức ông ấy đang bị hôn mê chưa? Giọng cô nói thật xúc động như không cầm được tiếng khóc! Cô cho tôi địa chỉ e-mail của cô, nói có tin tức gì về vợ con của Ông Tường từ Úc châu gởi qua thì làm ơn cho cô biết. Và sau này, có tin tức gì liên quan đến Ông Tường tôi đều forward cho cô.
Tôi nhớ sau những loạt bài "Chiến trường Bình Ðịnh và Mãnh Sư Nguyễn mạnh Tường" của Trần thúc Vũ, bài "Ðại Bàng Gẫy Cánh" của Song Vũ, là những tin tức về bệnh tình của ông càng ngày càng nặng. Ông bị hôn mê từ ngày nhập viên đến lúc này, cùng với tin là không biết thân nhân của ông ở đâu mà nhắn. Trong một bản tin tôi đọc được trên Net, nghe nói Bà Tường và 2 người con đang định cư ở Úc, tôi vội gửi e-mail nhờ anh VÐT bên đó nhắn tin và dò tìm giùm. Thời gian này có hơn 5, 7 trang nhà của các hội đoàn QÐ đăng tin tìm bà vợ và 2 con của ông.
Phần tôi thì tôi e-mail cho các bạn ở Mỹ, Canada và bên Úc nhờ tìm. Cô Dược Sĩ T.T.H tôi thường đến lấy thuốc, mỗi lần tôi đến, cô đều từ bên trong chạy ra hỏi: "Chú Minh, đã có tin tức gì về vợ con Ông Tường chưa hả Chú?" Tiếp đến là bài viết của Giao Chỉ San Jose "Tình Chiến Hữu", cùng với hình ảnh bạn bè ngồi chờ đến lượt vào thăm ông tràn đầy trên Net. Rồi báo chí cũng vào cuộc... Lúc này thì tin một Ông Ðại tá hôn mê nằm chờ chết mà không có thân nhân được bàn tán ở các quán cà-phê mà giới quân nhân thường ngồi. Rồi trang nhà của Phonui Pleiku đăng bài thơ "Người Lính Già Vừa Mới Chết Ðêm Qua" của Trần trung Ðạo làm mọi người đều tưởng là Ông Tường đã ra đi. Nhưng rồi ông cũng ra đi thật, nhưng ra đi mà không mãn nguyện, vì vắng bóng vợ con.
Hai ngày tôi túc trực ở nhà quàn nhận thấy mọi người đến với ông, một phần nhỏ cảm thương ông không có mặt vợ con, cô độc lúc ra đi. Một phần khác kính phục ông suốt đời chỉ biết lo cho dân, cho nước. Nhìn những cụ già chống gậy hay ngồi xe lăn, tuổi đời cũng gần 80 hay hơn nữa thì biết chắc đây là những SQ Khóa 5 Vì Dân của ông. Ðộng cơ nào thúc đẩy quý vị này không quản mưa gió, cả 2 ngày đều có mặt? Không phải vì xã giao, nhưng vì cùng Khóa và chính vì lòng quý trọng cuộc đời binh nghiệp của Ông Tường. Gần một phần ba những người đến nhà quàn trong 2 ngày là giới trẻ, có người chưa từng ở trong quân đội, nhưng đến viếng ông vì ngưỡng mộ ông qua những bài đăng trên báo, hay trên Net mà họ đã đọc được. Qua bài viết của Trần phong Vũ về trận đánh giải tỏa Ðề Gi, và trận đánh giải tỏa phi trường Phù Cát mới thấy ông thật là một Thiên Tài Quân sự.
Niên Trưởng Phan trọng Sinh có nói cho tôi biết là những kế hoạch hành quân sau này mà OP-35 thực hiện, là do Ðại tá Tường soạn thảo ra. Số là những toán Lôi-Vũ hành quân nhảy dù trên đường số 9, vùng Đông Bắc Khe sanh và Tchepone không đạt được kết quả như mong muốn. Do đó, Ðại tá Tường đề nghị với phía đối nhiệm Hoa kỳ thành lập những toán xâm nhập bằng trực thăng vào sâu trong đất Lào, cách biên giới Lào Việt khoảng 10 đến 15 cây số. Và lập nhữngTiền Doanh (FOB), và những T/D này là điểm xuất phát hay yểm trợ các cuộc hành quân xâm nhập sau này.
Lúc Thượng tọa Thích Viên Lý vừa xong phần tụng kinh và mời mọi người lên thắp nhang, tôi khấn: "Ông Tường ơi! Chắc ông đã bước vào con đường giải thoát mà có lần ông đã giảng cho tôi." Bây giờ ngoài trời vẫn còn mưa. Tôi bỗng chợt nhớ đến trận mưa bất thường hôm chôn ông. Khi quan tài ông vừa ra khỏi nhà quàn thì mưa bắt đầu rơi tầm tã. Khoảng hơn 2 phần 3 người đi đưa tiễn không có dù hay áo mưa nên số người đi sau quan tài cũng rất ít. Không biết có phải Ông Trời xót thương hoàn cảnh cô độc của ông không mà mưa càng lúc càng to, nên số người càng lúc càng bớt đi.
Ðến địa điểm chôn, Thượng tọa Thích viên Lý và quý Hòa thượng đứng trong lều tụng kinh, cùng một số quan khách đưa tiễn đứng chật cả lều. Tôi và Ðại tá T.M.C và một vài người có dù đứng bên ngoài, riêng toán thu kỳ thì chịu trận dưới mưa. Thôi thế cũng xong. Nếu linh hồn ông có phảng phất trong lúc này quanh đâu đây, chắc ông cũng vui vì tấm lòng của mọi người hiện diện trong cảnh mưa gió bão bùng này. Ông T.M.C nói: "Đám tang tay này thật đặc biệt. Moa thấy mọi người đến chia buồn đều nán ở lại, như bù lại cảnh cô đơn vắng bóng người thân của ông." Nhà quàn cũng đầy những vòng hoa thương tiếc, toán phủ cờ cũng đầy đủ trang nghiêm.
Vợ chồng tôi vì có một cái hẹn nên không ở lại dùng cơm chay do nhà chùa khoản đãi được và sau đó, tôi chào N/T Mục ra xe về. Trên đường về tôi nghĩ: "Cũng may mà các bạn cùng Khóa với ông mang ông về chôn dưới này, nên tôi còn có dịp nhìn được mặt ông lần cuối!"
Lê-Minh
13.4.2011